Vài năm gần đây, người Việt bắt đầu nuôi cu li như thú cưng trong nhà mà không biết rằng đây là loài có độc, gây tử vong cho con người.
Cu li còn gọi là 'cù lần', 'mắc cỡ' bởi theo dân gian, chúng không dám ngẩng mặt lên nhìn ban ngày vì nhút nhát, sợ hãi. Còn dưới góc nhìn khoa học, cu li có đôi mắt to và độ mở lớn nên có ích trong đêm tối hơn là ban ngày. Vào ban ngày, độ mở lớn của mắt khiến chúng tiếp nhận cường độ ánh sáng nhiều hơn nên dễ bị mù lòa. Chính vì vậy chúng thường giấu mắt cuộn vào bên trong cơ thể và ngủ ngày.
Việt Nam có hai loài là cu li lớn Nycticebus coucang và cu li nhỏ Nycticebus pygmaeus. Chúng thường sống ở rừng xanh nguyên sinh hoặc thứ sinh. Loài này thường kiếm ăn ban đêm với thức ăn chủ yếu là côn trùng, bọ cánh cứng, nhựa cây đóng cục. Các phương thuốc cổ truyền châu Á sử dụng loài cu li lớn làm thuốc và chúng đã bị tận diệt cho mục đích thương mại. Các quốc gia như Anh quốc hiện đã cấm mua bán loại này cũng như thuốc sản xuất từ chúng. Tại Việt Nam, cu li lớn được xếp vào danh mục các loài thực vật, động vật nghiêm cấm khai thác nhưng một số người vẫn nuôi loài này.
Nhà nghiên cứu sinh vật Phùng Mỹ Trung cho biết: trong các nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học đã phân tích được 212 hợp chất có độc ở loài cu li lớn và 68 hợp chất có độc ở loài cu li nhỏ. Các bằng chứng sau khi nghiên cứu cho thấy, nọc độc của cu li ngoài tác dụng bảo vệ chúng khỏi ký sinh trùng còn có thể dùng để phòng vệ chống lại kẻ thù. Phần độc này nằm ở phần trong của cánh tay trước và được tiết ra cùng mồ hôi. Khi cu li liếm phải chất độc sẽ theo tuyến nước bọt nên nếu không may bị loài này cắn, con mồi cảm thấy đau đớn toàn thân.
Chất độc có thể gây phù nề, nôn mửa, mất vài tuần để chữa lành ở người và để lại sẹo. Trong những trường hợp cực đoan, đối với một số người mẫn cảm với nọc độc này, vết cắn có thể bị sốc phản vệ, đôi khi dẫn đến cái chết.